TÚI NGỰC
Những đặc điểm hình ảnh bình thường và các biến chứng
BREAST IMPLANTS (Normal imaging findings and complications)
BREAST IMPLANTS (Normal imaging findings and complications)
Phẫu thuật nâng ngực (Breast augmentation surgery) là phẫu thuật thẩm mỹ phổ biến nhất trên thế giới.
Số phụ nữ đặt túi ngực nâng ngực hoặc tái tạo (reconstruction) ngày càng tăng.
Nguy cơ vỡ túi ngực (rupture) tăng theo thời gian đặt túi và thường gặp ở trường hợp đặt túi tái tạo sau phẫu thuật đoạn nhủ (mastectomy) do ung thư hơn so với các trường hợp nâng ngực thẩm mỹ (cosmetic augmentation).
Trong bài này, chúng ta sẽ tập trung vào vai trò hình ảnh học trong việc mô tả các đặc điểm bình thường và bất thường của các loại túi ngực phổ biến.
Bài viết dựa trên phần trình bày được đưa ra bởi Saskia Fuchs, Esteban van Keulen en Maud Hegeman trong suốt Sandwich course của Hội Chẩn Đoán Hình Ảnh Hà Lan vào tháng 2 năm 2021.
Intracapsular rupture: vỡ túi ngực trong bao
Extracapsular rupture: vỡ túi ngực ngoài bao
Mastectomy: phẫu thuật đoạn nhủ
Explantation: phẫu thuật lấy túi ngực
Periprosthetic fluid: dịch quanh túi ngực
Palpable: có thể sờ được
Well-deliniated: được giới hạn rõ
Discontinuous: mất liên tục
Khoảng 80% túi ngực được dùng cho nâng ngực thẩm mỹ, 20% dùng cho tái tạo ngực sau phẫu thuật cắt bỏ vú.
Túi ngực bao gồm vỏ ngoài silicone, bên trong là silicone hoặc nước muối sinh lý (saline).
Bao xơ (Capsule)
Tất cả túi ngực đều hình thành bao xơ xung quanh. Quá trình này có thể bắt đầu trong vài tuần đến vài năm sau khi đặt túi.
Đây là một phản ứng sinh lý của mô xơ khi có dị vật, mô xơ hình thành xung quanh túi ngực.
Túi ngực được đặt:
o Sau cơ ngực (subpectoral/ retropectoral): giữa cơ ngực lớn và cơ ngực bé hoặc
o Trước cơ ngực (prepectoral/ sub- or retroglandular): trước cơ ngực lớn hoặc
o Hai mặt (dual plane) – kết hợp cả hai – hầu hết túi ngực được đặt sau ngực nhưng phần sau bên thì không được cơ phủ lên.
Các mũi tên chỉ vào cơ ngực
Túi ngực sau cơ ngực
Trong kỹ thuật này, cơ ngực lớn được nâng lên khỏi thành ngực.
Nhìn chung, khả năng sờ được bờ của túi ngực sẽ thấp hơn.
Nhũ ảnh thường ít bị biến dạng hơn so với túi ngực đặt trước cơ ngực.
Túi ngực trước cơ ngực
Trong kỹ thuật này, túi ngực được đặt trước cơ ngực và phía sau mô tuyến vú (glandular tissue). Hình ảnh gợn sóng (rippling) được xem như là biến chứng phổ biến nhất. Nhũ ảnh thường bị biến dạng nhiều hơn.
Vị trí túi ngực tương quan với cơ ngực thấy được rõ nhất trên phim nghiêng theo trục (oblique view).
Túi ngực chứa nước muối sinh lý và túi ngực chứa silicone được cắt ra để bộc lộ chất làm đầy có hình dạng ổn định bên trong.
Túi ngực chứa silicone (Silicone filled implants)
Túi ngực được dùng phổ biến nhất bao gồm vỏ bọc silicone bên ngoài và chất làm đầy silicone gel bên trong. Chất làm đầy silicone này được cải tiến qua nhiều năm có dạng khối có hình dạng ổn định hơn (xem hình).
Túi ngực chứa nước muối sinh lý (Saline filled implants)
Túi ngực được làm đầy bởi nước muối sinh lý cũng có vỏ bọc silicone bên ngoài. Chúng có thể được sử dụng chủ yếu cho nâng ngực thẩm mỹ hoặc được dùng như dụng cụ làm giãn mô vú trong phẫu thuật tái tạo, nó giống như một thiết bị tạm thời và được bơm dần nước muối sinh lý vào. Túi ngực chứa nước muối sinh lý thường dễ bị chấn thương gây xẹp ngay lập tức (immediate deflation).
Túi ngực có thể tròn hoặc được tạo hình theo giải phẫu trước.
Bề mặt của bao túi có thể trơn nhẵn hoặc nhám do phủ một lớp polyurethane để ngăn túi ngực bị xoay.
Một vài loại túi ngực có miếng dán (patch), là một vùng nhám trên bề mặt để giữ túi ngực cố định hoặc để làm dấu định hướng có thể sờ được cho phẫu thuật viên.
Phải xem như là một dấu hiệu không chắc chắn nếu dấu hiệu đó là dấu hiệu duy nhất được tìm thấy trên một hình ảnh đơn lẻ (điều này không phổ biến)
Bảng này tóm tắt các đặc điểm hình ảnh bình thường và bất thường của túi ngực.
Khi dấu hiệu giọt nước, dây thòng lọng hoặc lỗ chìa khóa (droplet-, noose- or keyhole sign) được thấy là dấu hiệu đơn lẻ (a single sign) trên một hình ảnh, điều này ít xảy ra, khi đó xem như là một dấu hiệu không chắc chắn (uncertain finding).
Dấu hiệu mì Ý (Linguine sign) đặc hiệu nhất của vỡ trong bao.
a. Vôi hóa bao xơ (Capsular calcifications)
Vôi hóa có thể được tìm thấy trong 25% trường hợp đặt túi ngực. Xác suất vôi hóa bao xơ tăng lên theo tuổi của túi ngực (thời gian đặt túi), Các vôi hóa này không phải dấu hiệu của vỡ bao, mặc dù có liên quan đến thoái hóa vỏ bao.
b. Tràn dịch (Effusion)
Thường thất một lượng dịch nhỏ quanh túi (periprosthetic fluid) và hầu hết đều bình thường.
Tuy nhiên, đó cũng có thể là một bướu thanh dịch (seroma), bướu máu (hematoma) hoặc nhiễm trùng (infection) và phải có tương quan với triệu chứng lâm sàng (clinical symptoms). Không có mốc đo tuyệt đối nào có thể xem là bình thường. Nên so sánh đối chiếu với túi ngực đối bên (contralateral implant).
c. Gấp nếp (Folding)
Các nếp gấp có thể sờ được (palpable folds) có thể xuất hiện đặc biệt trong những trường hợp đặt túi trước cơ ngực có vị trí nông ở những phụ nữ có mô xung quanh ít. Các nếp gấp này có thể bị ép và bật lại khi thăm khám thực thể. Gấp nếp là một đặc điểm bình thường.
Vôi hóa bao xơ. Khả năng vỡ trong bao ở túi ngực bên phải.
Trên mặt cắt axial hình CT, thấy có dày bao xơ với vôi hóa rất nhiều.
Ở hình bên phải, còn thấy thành phần bên trong không đồng nhất và một vài đường dạng tuyến tính, đưa đến nghi ngờ vỡ trong bao.
a. Co thắt bao xơ (capsular contraction)
Tần suất co thắt bao xơ lên đến 25% trong 10 năm và thường thấy trong các trường hợp tái tạo vú hơn nâng ngực. Bao xơ trở nên dày và cứng, hình dạng túi thường trở nên tròn hơn (rounder) và ấn ít xẹp hơn (less compressible).
b. Dấu hiệu giọt nước (Droplet sign)
Dấu hiệu giọt nước và thành phần bên trong không đồng nhất là những thay đổi thoái hóa có thể gợi ý tình trạng vỡ trong bao, nhưng không phải là bằng chứng chắc chắn vỡ.
Vỡ trong bao xảy ra khi vỏ của túi ngực vỡ nhưng bao xơ tạo thành bởi mô tuyến vú còn nguyên vẹn. Silicon không thoát ra tự do (freely extravasate), nhưng bị mắc kẹt giữa bao xơ (capsule) và vỏ túi (envelope).
Điều này gây khó khăn cho việc phát hiện khi thăm khám lâm sàng hoặc trên nhủ ảnh. Có nhiều dấu hiệu được mô tả để chỉ ra tình trạng vỡ trong bao, nhưng tất cả điều liên quan đến silicon nằm giữa bao xơ và vỏ bao.
Vỡ trong bao được quan sát rõ nhất trên MRI.
a. Dấu hiệu giọt nước mắt (Teardrop sign)
Đây là sự lõm vào khu trú của vỏ bao silicon, nơi hai thành tiếp xúc vào nhau. Một lượng nhỏ silicon nằm trong “giọt nước mắt”, có nghĩa là nó nằm ngoài bao túi.
b. Dấu hiệu lỗ khóa (Keyhole sign)
Còn được gọi là dấu hiệu mũi (nose-sign). Đây là sự lõm khu trú của vỏ bao silicon, nơi hai thành không tiếp xúc vào nhau. Một lượng nhỏ silicon bên trong lỗ khóa và bên ngoài vỏ túi.
c. Dấu hiệu mì Ý (Linguine sign)
Bao túi vỡ có dạng các đường cong (curvilinear lines) trông giống như mì Ý (Linguine pasta).
Những dấu hiệu này của vỡ trong bao cần được phân biệt với gấp nếp bình thường (normal folding) có thể chứa một ít dịch, đó là dịch sinh lý quanh túi ngực (xem hình).
Đối với vỡ ngoài bao, silicon từ túi ngực vỡ xâm nhập tự do ra ngoài bao túi và bao xơ đi vào mô tuyến vú xung quanh (surrounding breast tissue).
Vôi hóa bao xơ và vỡ ngoài bao (mũi tên)
Năm 2019, nhủ ảnh cho thấy có vôi hóa lan tỏa bao xơ và hình dạng túi ngực rất tròn. Điều này cho thấy có co thắt túi ngực.
Theo dõi tiếp đến năm 2020, đường bờ có thay đổi và hiện tại có silicon ra khỏi bao xơ, đây là dấu hiệu chắc chắn của vỡ ngoài bao (mũi tên).
Bệnh nhân lớn tuổi này không muốn phẫu thuật, chỉ muốn sàng lọc khả năng ung thư.
Trong lần khám theo dõi năm 2022 không ghi nhận thay đổi nhiều. Gel silicon hiện đại có liên kết cao hơn và có xu hướng lan ra ít hơn.
Khi siêu âm bệnh nhân, hãy đề cập đến mức độ đánh giá được (the degree of evaluability).
Tình trạng của túi ngực có thể bị che do đóng vôi bao xơ hoặc bờ sau có thể khó quan sát thấy do thể tích lớn của túi.
Không phân loại BIRADS trên báo cáo kết quả MRI bởi vì protocol không thể phát hiện ung thư vú.
Vỏ bao (mũi tên vàng) và bao xơ (mũi tên trắng) nằm trước vỏ bao.
Dấu hiệu bánh Oreo đảo ngược (Inverted Oreo sign)
Bao túi ngực có thể nhìn giống như bánh Oreo đảo ngược. Đường trắng đầu tiên là diện tiếp xúc ngoài của bao và đường trắng thứ hai là diện tiếp xúc trong của bao, giữa bao và gel silicon (mũi tên vàng).
Giữa lớp ngoài của bao túi ngực và bao xơ xung quanh là một khoang ảo (virtual space) có thể làm đầy và mở rộng.
Bao xơ thấy được tách rời với bao túi ngực như một đường trắng riêng biệt ở trước bao túi (mũi tên trắng).
Bao túi ngực và bao xơ được gọi chung là phức hợp bao túi – bao xơ (envelope-capsule complex).
Vị trí đánh giá túi ngực tốt nhất ở ¼ trên. Tìm tương quang cơ ngực với túi ngực. Phần thấp hơn của túi thường không được bao phủ hoàn toàn bởi cơ ngực.
Hình ảnh
Đây là túi ngực ở vị trí sau cơ ngực.
Cơ ngực lớn thấy ở phía trước túi ngực.
Hướng về phía dưới cơ thể, cơ ngực lớn mỏng và khó quan sát được.
Dấu hiệu xuống thang trong túi ngực.
Dấu hiệu xuống thang (Step off sign)
Dấu hiệu xuống thang là một xảo ảnh được tạo ra do sự chuyển đổi tốc độ chậm hơn của sóng siêu âm khi đi qua silicon (970m/s trong Gel Silicon và 1540m/s khi qua nước)
Do đó thành ngực có vẻ sâu hơn so với mức túi ngực.
Xảo ảnh này không thấy được trong túi ngực nước muối sinh lý.
Bạn có thể thấy sự khác biệt giữa túi ngực nước muối sinh lý và silicon.
Vôi hóa bao xơ
Vôi hóa bao xơ (Capsular calcifications)
Vôi hóa bao xơ có thể ở một hoặc nhiều vị trí.
Đôi khi vôi hóa có dạng đường hoặc dày dạng lan tỏa.
Xảo ảnh đa âm phản hồi
Xảo ảnh đa âm phản hồi (Reverberation artefacts)
Vùng trước túi ngực thường có các đường hồi âm nằm ngang song song nhau được tạo ra do xảo ảnh đa âm phản hồi.
Có thể hạn chế các xảo ảnh này bằng cách dùng đầu dò với lực nhẹ hơn hoặc sử dụng kỹ thuật hình ảnh harmonic (siêu âm hòa âm).
Tình trạng hồi âm không đồng nhất bình thường sau phẫu thuật.
Có thể thấy hồi âm bên trong không đồng nhất lan tỏa của túi ngực, một thời gian ngắn sau phẫu thuật. Do đó, khi đặc điểm này không kèm theo các dấu hiệu khác của biến chứng thì không khẳng định chắc chắn có vỡ trong bao.
Đối chiếu hình ảnh vôi hóa bao xơ với hình ảnh rò rỉ silicone ra ngoài bao xơ.
Đôi khi, khi lớp vôi hóa dày có thể cho xảo ảnh giống với hình ảnh “bão tuyết”, thường được tạo ra do gel silicone thoát ra bên ngoài.
Hình ảnh
Hình bên trái là đậm độ vôi hóa.
Hình bên phải là xảo ảnh “bão tuyết” được tạo ra do gel silicone rò rỉ ngoài bao xơ.
Các loại van khác nhau.
Hình ảnh
A. Túi ngực nước muối sinh lý với van đổ đầy.
B. Màng ngăn có bờ rõ nét, đối xứng và nằm ở trung tâm, tạo hình ảnh giống như một bao vỏ bất thường.
C. Một loại van kiểu khoang chứa (reservoir) khác
Dải đánh dấu trên túi ngực
Đánh dấu
Chụp nhủ ảnh cho thấy túi ngực có một dải tròn nhỏ bao quanh.
Trên siêu âm, nhận diện chỗ đánh dấu này như một cấu trúc dạng đường khi nhìn trên hai mặt cắt (hình đường tròn trên mặt cắt ngang và các mũi tên chỉ trên mặt cắt dọc)
Không nên nhầm lẫn với một bất thường của vỏ bao.
Một lượng dịch nhỏ quanh túi ngực hồi âm trống là bình thường (Hình bên trái).
Khi lượng dịch tăng lên trong tràn dịch hoặc dịch có hồi âm có thể được chọc để đánh giá, tùy vào các đặc điểm lâm sàng.
Gấp nếp
Các nếp gấp có thể thấy ở nhiều dạng. Chúng luôn không ổn định.
Đôi khi có thể sờ được các nếp gấp khi chúng cuộn ra ngoài, đặc biệt ở các bờ của túi ngực và ở các vị trí có ít mô nằm giữa túi ngực và da.
Các nếp gấp này là đặc điểm bình thường.
Các nếp gấp hướng tâm (radial folds)
Các đường thẳng hoặc cong ở sâu bên trong túi ngực có thể khó gọi tên.
Chúng có phải là những nếp gấp hướng tâm bên trong hay là phần vỏ bao bị xẹp do vỡ trong bao? Cố gắng tìm thêm các dấu hiệu khác và đi theo các đường để đánh giá sự liên tục của vỏ bao.
Trong một vài trường hợp, cần thực hiện MRI để đánh giá đúng vấn đề.
Vỡ trong bao là tình trạng vỏ bao vỡ, nhưng bao xơ vẫn còn nguyên vẹn.
Silicone xâm nhập vào giữa vỏ bao và bao xơ nhưng không thoát tự do ra mô vú hoặc ra ngoài.
Các dấu hiệu để nhận biết:
+ Dấu hiệu dưới bao xơ (Subcapsular sign): các đường song song bên trong túi ngực, không đi theo phức hợp vỏ bao – bao xơ bên ngoài.
+ Dấu hiệu bậc thang (Stepladder sign): nhiều lớp tạo bởi các đường song song bên trong túi ngực. Dấu hiệu này tương đương với dấu hiệu mì Ý (Linguine sign thấy được trên MRI.
+ Xảo ảnh dạng bão tuyết (Snowstorm artefacts): bên ngoài vỏ bao.
Siêu âm có thể phát hiện vỡ trong bao bằng cách nhận diện một loạt các đường thẳng hoặc cong nhẹ có hồi âm nằm ngang, song song, đi ngang qua phía dưới túi ngực, thường được gọi là dấu hiệu thang đứng.
Quan trọng là không nhầm lẫn dấu hiệu thang đứng với các nếp gấp hướng tâm bình thường.
Hình ảnh
Thêm các ví dụ về dấu hiệu thang đứng
Dấu hiệu thang đứng ở một bệnh nhân có vôi hóa bao xơ rất nhiều.
Ở bệnh nhân này, vôi hóa bao xơ nhiều đã làm che lấp tình tràng của túi ngực.
Tuy nhiên, khi nhìn từ một góc khác, rõ ràng có dấu hiệu thang đứng chỉ ra có vỡ bao.
Do vôi hóa lan rộng nên không chắc chắn được là chỉ có vỡ trong bao hay cũng có rò rỉ silicone ra ngoài bao.
Vỡ trong bao
A. Vỏ bao có thể không còn tìm được quanh bề mặt túi ngực. Thành phần bên trong hoàn toàn không đồng nhất và thoái hóa.
B. Vỏ bao bị xẹp (mũi tên vàng) và không đi theo phức hợp vỏ bao – bao xơ ở ngoài (mũi tên trắng). Có một lượng dịch không đồng nhất giữa vỏ bao và bao xơ chứa silicone.
Vỡ túi ngực silicone ngoài bao được định nghĩa là vỡ cả vỏ túi và bao xơ làm thoát silicone đại thể, lan ra khỏi bao xơ vào trong mô vú và xa hơn nữa.
Silicone vượt khỏi bao xơ tạo bóng lưng được gọi là “bão tuyết” hoặc “bóng lưng dơ” (xem hình).
A. Có silicone tự do nhìn thấy được bên ngoài phức hợp vỏ bao – bao xơ. Đây là dấu hiệu của vỡ ngoài bao. Tuy nhiên, không có các dấu hiệu khác của vỡ túi ngực. Đây có thể là silicone lắng đọng lại của một túi ngực cũ đã được lấy ra do rò rỉ silicone ra ngoài bao.
B. Dấu hiệu bão tuyết trong hạch nách có tính đặc hiệu cao cho lắng đọng silicone trong hạch. Siêu âm có độ nhạy cao hơn MRI trong việc tìm các hạch có lắng đọng silicone.
MRI là tiêu chuẩn vàng trong việc đánh giá tính toàn vẹn của túi ngực, việc phát hiện vỡ túi có độ nhạy 80-90 % và độ đặc hiệu 90 – 97%.
MRI có độ phân giải không gian cao (a high spatial resolution) và có khả năng làm giảm (suppress) hoặc làm tăng lên (enhance) tín hiệu Silicone, nước và mỡ.
Việc kết hợp các chuỗi xung có thể được sử dụng để phát hiện các biến chứng của túi ngực. Không cần thiết dùng MRI có tiêm Gadolinium đường tĩnh mạch.
Xung T2W
Đánh giá giải phẫu trên chuỗi xung này là tốt nhất và có độ phân giải cao.
T2W cũng cho thông tin về các hạch phì đại.
Xung silicone-only
Đây là chuỗi xung STIR, xoá mỡ kèm xoá nước. Do đó, chỉ còn tín hiệu của chất Silicone. Xung này lý tưởng trong việc đánh giá vỡ vỏ bao và phát hiện silicone nằm ngoài vỏ bao hoặc nằm ngoài bao xơ.
Xung water-only
Sự kết hợp của xoá mỡ và xoá silicone cho thông tin về các ổ tụ dịch bên trong hoặc xung quanh túi thẩm mỹ.
Thường gặp tràn dịch lượng ít, có tín hiệu khác biệt so với silicone, không nên nhầm với dấu hiệu lỗ chìa khoá (keyhole sign).
Hình T2W cho thấy có tràn dịch trong khoang ảo giữa vỏ bao và bao xơ. Đây là một đặc điểm bình thường.
Hình T1W cho thấy bao xơ dày và có tín hiệu thấp. Bao xơ có tín hiệu thấp trên mọi chuỗi xung.
Bờ túi ngực tròn hơn, cho thấy có co thắt bao xơ.
Mặc dù các dấu hiệu co thắt túi ngực có thể thấy rõ trên hình ảnh, nhưng mức độ co thắt sẽ được ước lượng thông qua thăm khám lâm sàng.
Các nếp gấp hướng tâm bình thường
Các nếp gấp hướng tâm là những chỗ gấp của vỏ bao đi ra bề mặt vào trong chất gel bên trong.
Đây cũng là một đặc điểm hình ảnh bình thường.
Bên trong các đường gấp này không chứa silicone.
Các nếp gấp hướng tâm bình thường
Nhiều nếp gấp hướng tâm bình thường.
Các nếp gấp hướng tâm bình thường
Thêm các ví dụ chỗ gấp bình thường của vỏ bao.
Không có silicone bên trong các nếp gấp này
Các nếp gấp hướng tâm bình thường
Một ví dụ khác về đường đi sâu và lan rộng của các nếp gấp hướng tâm bình thường.
Dấu hiệu giọt nước (Water droplet sign)
Nhiều giọt nước hình tròn nhỏ với tín hiệu dịch nằm trong lớp gel silicone có thể là một dấu hiệu của thoái hoá.
Tuy nhiên, nên có nhiều dấu hiệu hơn để nghĩ đến khả năng vỡ.
Có silicone bên trong một nếp gấp là một dấu hiệu của vỡ trong bao.
Hình ảnh cho thấy:
+ Dấu hiệu giọt lệ (teardrop sign): khi các thành chạm vào nhau (1).
+ Dấu hiệu lỗ chìa khoá hoặc dây thòng lọng (keyhole hoặc noose sign): hình dạng khác nhau, các thành không chạm vào nhau (2,3)
Đây là một ví dụ khác về hình ảnh vỡ trong bao có silicone thoát ra ngoài vỏ bao nhưng bên trong bao xơ.
+ Đường dưới bao (mũi tên vàng)
+ Dấu hiệu dây thòng lọng (mũi tên xanh)
+ Dấu hiệu giọt lệ (mũi tên đỏ)
Đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất của vỡ trong bao.
Các đường cong được tạo ra do vỏ bao vỡ giống như hình sợi mì Ý
Đầu tiên hãy khảo sát hình ảnh và trả lời các câu hỏi dưới đây:
1. Bạn thấy được dấu hiệu nào?
2. Mỗi đặc điểm mức độ nghi ngờ vỡ như thế nào?
Cuộn hình
- Màu xanh lá: thoái hóa nhưng không phải là dấu hiệu vỡ
- Màu cam: nghi ngờ vỡ trong bao nhưng không phải là dấu hiệu chắc chắn. Cần các chuỗi xung khác để khẳng định đó có phải silicone hay không.
- Màu đỏ: dấu hiệu mì Ý (Luiguine sign) – bằng chứng của vỡ trong bao.
Người phụ nữ này có tình trạng vỡ ngoài bao bên phải với hình ảnh silicone nằm bên ngoài bao xơ dày (mũi tên trắng).
Ở vú bên trái, có vỡ trong bao được gợi ý bởi đường dưới bao có silicone ở hai bên (mũi tên vàng).
Một ví dụ khác của vỡ ngoài bao có silicone nằm ngoài ranh giới bao xơ.
Silicone còn tồn dư sau khi phẫu thuật lấy túi ngực ra (explantation).
Bệnh nhân này đã lấy bỏ túi ngực hai bên. Ở bên phải, có silicone tín hiệu cao trong hạch (mũi tên trắng).
Ở bên trái, có silicone tồn dư ở phía trước và phía sau cơ ngực lớn (mũi tên vàng) và cũng nằm trong cơ ngực.
Khi một túi ngực silicone mới được đặt vào, silicone tồn dư này không được xem là rò rì silicone ngoài bao của túi ngực mới.
BIA-ALCL hay u lympho tế bào lớn thoái sản liên quan đến túi ngực là một biến chứng quan trọng của túi ngực silicone và túi ngực nước muối sinh lý cần được biết.
BIA-ALCL phát triển chủ yếu nếu không loại trừ được các bệnh nhân túi bề mặt nhám
Tần suất ước tính của nnhwun gx A túi ngực này là 1:30.000.
Hầu hết BIA-ALCL đều được thấy ở túi ngực nhám Allergan Biocell và sau đó loại túi ngực này đã bị thu hồi khỏi thị trường.
2/3 số người có BIA-ALCL có biểu hiệu khó chịu và sưng nề do xuất hiện tràn dịch quanh túi (85%) trong tế bào lympho không điển hình được tìm thấy. Đôi khi có kèm theo khối ở 15% trường hợp.
Bất kỳ tràn dịch hoặc tổn thương dạng khối một bên khởi phát muộn nào đều nên được chọc hút và phân tích tế bào.
Đánh giá giai đoạn bằng PET-CT, như trong bất kỳ trường hợp u lympho khác nào.
Hâu hết bệnh nhân đều ở giai đoạn 1.
Phương pháp điều trị là phẫu thuật cắt bỏ túi ngực, bao xơ và khối u (nếu có).
Kết quả điều trị khả quan khi được điều trị sớm.
X quang và CT ngực không đóng vai trò trong đánh giá túi ngực.
Đôi khi, túi ngực được phát hiện trên phim X quang chẳng hạn như khi có vôi hóa bao xơ hoặc khi nhìn thấy được van làm đầy của một túi ngực dãn (mũi tên).
Đôi khi trên CT, cũng có thể thấy được các biến chứng, nhưng CT thường không cung cấp đủ thông tin về tính tòa vẹn của túi ngực.
Vỡ trong bao
Phim X quang ngực cho thấy có vôi hóa bao xơ của một túi ngực bị lệch vào trong, không song song với đường bờ vú.
Hình CT của cùng bệnh nhân cũng cho thấy vôi hóa ở mặt sau không đi theo đường bờ túi ngực gợi ý vỡ trong bao (mũi tên).
Túi ngực chứa nước muối sinh lý
Một túi ngực nguyên vẹn có đậm độ xám bên trong đồng nhất trên hình CT kèm với vỏ bao và bao xơ đậm độ cao mỏng bao quanh.
Các bất thường về vị trí và các loại van làm đầy khác nhau đôi khi có thể nhận diện được.
Bệnh nhân này có túi ngực nước muối sinh lý đậm độ bên trong thấp. Bao xơ đều đậm độ cao nhẹ, mỏng.
Van kim loại
Trên CT, có thể thấy được các loại van làm đầy khác nhau của túi ngực
Vôi hóa bao xơ thường thấy và đôi khi có dấu hiệu Linguine (mũi tên).
Trong hầu hết các trường hợp trên CT không kết luận được.
Túi ngực bên trái của bệnh nhân này có đóng vôi bao xơ, không nằm ở ngoại vi và mất liên tục.
Không xác định được đây là một trường hợp vỡ ngoài bao hay tràn dịch lượng lớn.
Hình ảnh của cùng một bệnh nhân trước và sau phẫu thuật đặt túi nâng ngực loại trước cơ ngực.
Đặc biệt, các loại túi ngực trước cơ ngực có thể làm hạn chế việc đánh giá nhũ ảnh.
Tuy nhiên, nhủ ảnh và máy chụp nhũ ảnh 3D (3D tomosynthesis) vẫn có thể thực hiện tốt và thực tế có giá trị tiên đoán dương cao nhất trong việc phát hiện silicone nằm ngoài bao xơ.
Chúng cũng phát hiện được những thay đổi qua thời gian, phát hiện các vôi hóa, có thể thấy bóng lưng của dịch xung quanh và tất nhiên có thể cung cấp thêm những đặc điểm quan trọng của mô sợi tuyến.
Các thể chụp đặc biệt có thể được thực hiện như tư thế Eklund
Bằng cách đẩy túi ngực ra phía sau và kéo mô vú ra phía trước để hình ảnh mô sợi tuyến có thể thu được rõ hơn.
Chụp nhũ ảnh 3D có thể rất hữu ích trong trường hợp này.
Có một khối nằm ở mặt bên, quan sát được rõ trên hình nhũ ảnh 3D. Sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm được thực hiện và cho kết quả bướu sợi tuyến (fibroadenoma).
Trên hình nhũ ảnh này có vôi hóa bao xơ và các vôi hóa ngoài bao không điển hình.
Chi tiết mẫu bệnh phẩm cho thấy khối tổn thương và vôi hóa tạo thành nhóm (grouped calcification).
Giải phẫu bệnh: Ung thư vú giai đoạn 2, không có loại đặc biệt.
Người phụ nữ này có đặt túi ngực chứa nước muối sinh lý và thấy có màng ngăn hình đĩa, đó là van làm đầy. Có một khối tổn thương, rõ ràng hơn trên hình nhũ ảnh 3D. Nó là một khối có bờ tua gai (spiculated mass).
Giải phẫu bệnh: Ung thư thùy dạng thâm nhiễm giai đoạn 2 và LCIS.
Một ví dụ khác cho thấy giá trị của nhũ ảnh 3D.
Khối u thấy rõ nhất trên hình nhũ ảnh 3D.
Thế chụp chếch của vú phải cho thấy vỡ xẹp túi ngực chứa nước muối sinh lý.
Túi ngực chứa nước muối sinh lý bình thường có van làm đầy nằm ở bên trái.
Ở hình A, có vôi hóa bao xơ trước cơ ngực của túi ngực trước đây và túi ngực mới dưới bao.
Ở hình B, đây là một tình huống sau phẫu thuật cắt bao xơ và thay thế túi ngực dưới cơ ngực.
Ở hình A, có vôi hóa bao xơ trước cơ ngực của túi ngực trước đây và túi ngực mới dưới bao.
Ở hình B, đây là một tình huống sau phẫu thuật cắt bao xơ và thay thế túi ngực dưới cơ ngực.
Rò rỉ silicone (Silicone leakage)
Hình ảnh silicone điển hình bên ngoài bao xơ cho hình ảnh dạng khối tăng đậm độ giới hạn rõ nằm ngoài bờ túi ngực.
U hạt silicone
U hạt silicone còn lại sau phẫu thuật lấy túi ngực do vỡ ngoài bao năm 2013.
U hạt silicone có thể biểu hiệu dưới dạng các khối có hình dạng nghi ngờ và tăng tín hiệu trên MRI vú hoặc tăng hoạt độ FDG trên PET CT. Chúng có thể có mặt ở ngoại biên của túi ngực hoặc trong mô vú sau vỡ.
Sự có mặt của túi ngực silicone, nhận thức về khả năng vỡ và hình thành u hạt silicone có thể giúp đưa ra chẩn đoán chính xác.
Tiêm silicone tự do vào mô vú
Đây là một phương pháp thay thế để nâng ngực, mặc dù phương pháp này có những ảnh hưởng xấu nghiêm trọng và bị cấm ở nhiều quốc gia.
Bệnh nhân đến từ Philipines này xuất hiện với khối đau ở hai vú.
Đậm độ tăng mạnh ở cả hai vú là kết quả của việc tiêm silicone vào trong tuyến.
Tiếp tục với hình ảnh MRI…
MRI của cùng bệnh nhân cho thấy silicone tự do biểu hiện dưới dạng các vùng tín hiệu cao trên chuỗi xung silicone-only.
Trong video này, đầu tiên rách một đường trên bao xơ dày.
Sau đó, túi ngực được lấy ra qua đường rạch này.
Cuối cùng, bao xơ dày được cắt bỏ hoàn toàn.
Như một cách trân trọng chất xám của người viết bài gốc, mình khuyến khích những bạn có ngoại ngữ tốt hãy đọc bài viết gốc để có thể tìm hiểu trọn vẹn nội dung của bài nhé! Tuy nhiên, mình hy vọng bài dịch của mình sẽ giúp lan tỏa kiến thức của người viết và giúp bạn thuận tiện hơn trong quá trình đọc tài liệu. Đồng thời mình đã take note một số thuật ngữ được sử dụng nhằm hỗ trợ bạn có thể học thêm tiếng Anh chuyên ngành khi đọc bài của mình.
Chúc bạn học tốt nhé!!!
-- Bs. Nguyễn Hồng Bảo --
(Publicized on November 29, 2025)