Bệnh cơ tuyến tử cung
Adenomyosis
Adenomyosis
Bệnh cơ tuyến tử cung là một bệnh lý tử cung phổ biến về mô nội mạc lạc chỗ trong lớp cơ tử cung, đôi khi được xem như một phổ của bệnh lạc nội mạc tử cung. Mặc dù hầu hết đều không có triệu chứng, nhưng chúng có thể có biểu hiện rong kinh và đau bụng kinh.
Chẩn đoán hình ảnh vùng chậu (như siêu âm, MRI) có thể thể hiện những đặc điểm, phổ biến bao gồm sự dày lên của cơ tử cung dạng lan tỏa hoặc khu trú, có thể không đối xứng, và lớp cơ tử cung không đồng nhất.
Thông thường, bệnh cơ tuyến tử cung ảnh hưởng phổ biến nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đã sinh con nhiều lần. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào kết quả nghiên cứu với các xét nghiệm mô bệnh học trên các mẫu bệnh phẩm cắt tử cung, do đó có xu hướng thiên về những bệnh nhân đã phẫu thuật. Tương tự, nó có thể là nguyên nhân vì sao bệnh cơ tuyến tử cung được tìm thấy với tần suất cao ở phụ nữ có tiền sử can thiệp thủ thuật phẫu thuật tử cung (ví dụ như sinh mổ, nong cổ tử cung và nạo buồng tử cung). Những bệnh nhân với mức tiếp xúc estrogen cao (ví dụ như chu kỳ kinh nguyệt ngắn, có kinh sớm) có nguy cơ mắc bệnh cơ tuyến tử cung tăng.
Tần suất được báo cáo có khoảng rộng từ 5% đến 70% (trung bình 20 - 30%), tùy thuộc vào định nghĩa mô học hoặc phương tiện chẩn đoán hình ảnh được dùng. Bệnh cơ tuyến tử cung tương đối hiếm ở phụ nữ sau mãn kinh nhưng tần suất cao hơn được báo cáo đối với phụ nữ điều trị ung thư vú bằng tamoxifen.
Lạc nội mạc tử cung đồng thời được báo cáo trong 20% ca mắc
Nhân xơ tử cung có thể hiện diện trong khoảng 50% số ca liên quan bệnh cơ tuyến tử cung
Một số bệnh liên quan khác được ghi nhận: tăng sản nội mạc tử cung, polyp nội mạc tử cung, ung thư nội mạc tử cung dạng nội mạc
Đa số bệnh nhân mắc bệnh cơ tuyến tử cung không có triệu chứng. Nhiều triệu chứng liên quan đến bệnh bao gồm đau bụng kinh, rong kinh, đau khi quan hệ tình dục, đau vùng chậu mạn tính, chảy máu kinh nguyệt bất thường. Các tuyến nội mạc lạc chỗ trong lớp cơ không đáp ứng với hormon buồng trứng theo chu kỳ, khác với các tuyến của lạc nội mạc tử cung. Ấn đau hạ vị khi thăm khám liên quan với sự to lên lan toả của tử cung.
Bệnh cơ tuyến tử cung được định nghĩa về mặt mô học là sự xuất hiện của mô đệm và mô tuyến nội mạc lạc chỗ bên trong lớp cơ tử cung. Nguyên nhân chính xác của bệnh chưa xác định, nhưng người ta cho rằng các tuyến nội mạc xâm nhập trực tiếp vào lớp cơ dẫn đến sự hình thành mạch máu dạng xoắn, và tăng sản và phì đại cơ trơn kế cận. Nó được giả thuyết rằng mô cơ phì đại bất thường này bao quanh các tuyến nội mạc lạc chỗ ngăn cản các cơn co tử cung làm tắc các tiểu động mạch cơ tử cung đang chảy máu; do đó, những bệnh nhân này thường biểu hiện xuất huyết tử cung bất thường hay rong kinh.
Một vài giả thuyết khác cho rằng sự xâm nhập của lớp nội mạc tử cung qua lớp nền dọc theo các mạch bạch huyết bên trong lớp cơ và các tàn dư Muller đa năng bị lệch về mặt phôi học.
Những đặc điểm hình ảnh biến đổi và trong nhiều trường hợp rất tinh tế.
Ba (một vài tác giả cho là bốn) dạng có thể phân biệt được:
Adenomyosis lan tỏa: thường gặp nhất
Adenomyosis khu trú và u cơ tuyến tử cung (Adenomyoma): đôi khi được xem là khác nhau
Adenomyosis dạng nang và nang dạng adenomyosis: hiếm gặp
Adenomyosis thường tương đối lan rộng, ảnh hưởng đến các phần lớn của tử cung (điển hình là thành sau), nhưng không thấy ở vùng cổ tử cung. Mặc dù thường có sự to lên đáng kể của tử cung, đường viền tổng thể vẫn được bảo tồn.
Trong một vài trường hợp, adenomyosis có thể khu trú, tạo thành một khối. Đối với những trường hợp đó, thuật ngữ u cơ tuyến tử cung (adenomyoma) được dùng, mặc dù có một vài sự bất đồng về việc thuật ngữ bệnh cơ tuyến tử cung dạng khu trú và u cơ tuyến tử cung có đề cập đến chính xác cùng một loại hay không.
Một biến thể hiếm gặp là bệnh cơ tuyến tử cung dạng nang, được nghĩ là kết quả của việc xuất huyết khu trú lặp đi lặp lại tạo ra các nang được chứa đầy các sản phẩm máu bị thay đổi.
Mặc dù siêu âm vùng chậu là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh chính dùng để điều tra rong kinh và đau bụng kinh, những đặc điểm siêu âm của chúng thường thay đổi và độ nhạy phụ thuộc vào người thực hiện và kỹ thuật. Ví dụ, độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm ngã bụng theo thứ tự là 32-63% và 95-97%. Tuy nhiên siêu âm ngã âm đạo được báo cáo với độ nhạy 89% và độ đặc hiệu 89% tương đương MRI.
Năm 2021 một đồng thuận về các định nghĩa sửa đổi của các đặc điểm hình thái tử cung của adenomyosis được công bố.
Nó có thể hữu ích để phân loại các đặc điểm siêu âm thành 3 nhóm giống với các đặc điểm mô học.
“adeno”: các tuyến nội mạc lạc chỗ
Các đường sọc và/ hoặc các nốt hồi âm dưới nội mạc tử cung (dấu hiệu đặc hiệu), kéo dài từ lớp nội mạc vào bên trong lớp cơ trong
Các đảo hồi âm kém
Đường nối lớp nội mạch - lớp cơ không đều
Các nang trong cơ và dưới nội mạc hồi âm trống nhỏ (1-5mm) (dấu hiệu đặc hiệu): phản ánh các tuyến chứa đầy dịch
Các sọc dạng nang
“myosis”: tăng sản +/- phì đại cơ, có thể có hồi âm kém
Sự dày lên của cơ tử cung khu trú hoặc lan tỏa, có thể không đối xứng
Điển hình ở vùng đáy và thành sau
Các tổn thương khu trú có các giới hạn tương đối không rõ, so với nhân xơ tử cung
Dày lớp cơ tử cung không cân đối
Sự dày lên của vùng chuyển tiếp đôi khi có thể quan sát được như một viền giảm âm xung quanh lớp nội mạc có bề dày ≥12mm (ít đặc hiệu)
Mạch máu: dòng chảy trên Doppler màu
Thường tăng sinh
Số lượng các mạch máu ngoằn ngoèo xuyên vào lớp cơ tử cung tăng lên
Những vùng mạch máu tăng sinh tương ứng với sự phân bố của các tổn thương
Dấu hiệu “cửa chớp” (Venetian blind) hay “mưa rào” (rain shower) (các đường sọc thẳng, bóng lưng song song) có thể xem là sự kết hợp của những đặc điểm đã đề cập trên: không đồng nhất, mật độ cơ tử cung thô, và bóng lưng nơi có mô nội mạc gây ra phản ứng tăng sản. Sự kết hợp giữa sự khác biệt này và những dải sọc thẳng và dạng nốt hồi âm dưới nội mạc không khác gì hình ảnh của bệnh lý nhu mô gan mạn tính - vì thế, “xơ tử cung”.
Khi một khối u cơ tuyến tử cung được phát hiện, những đặc điểm hình ảnh có thể rất giống với một nhân xơ tử cung, chúng cũng có thể cùng tồn tại.
Có thể thấy các túi thừa lan rộng vào lớp cơ tử cung
Chụp cắt lớp vi tính không nhạy đối với bệnh cơ tuyến tử cung nhưng có thể cho thấy sự to ra của tử cung.
Phân biệt bệnh cơ tuyến tử cung và nhân xơ tử cung trên CT khá thách thức mặc dù sự có mặt của vôi hóa củng cố mạnh mẽ cho nhân xơ tử cung.
MRI vùng chậu là một phương tiện được lựa chọn để chẩn đoán và phân loại bệnh cơ tuyến tử cung. Những hình ảnh T2w có trường nhìn nhỏ (mặt cắt sagittal và axial) là hữu dụng nhất. MRI có độ nhạy 78-88% và độ đặc hiệu 67-93%.
Đặc điểm nhận dạng dễ dàng nhất là sự dày lên của vùng chuyển tiếp ≥ 12mm, có thể khu trú hoặc lan tỏa (độ dày vùng chuyển tiếp bình thường #5mm)
T1
Các ổ tăng tín hiệu trên T1 thường được thấy, cho biết tình trạng xuất huyết kinh nguyệt vào trong các mô nội mạc lạc chỗ.
T2
Thông thường một vùng adenomyosis biểu hiện như một vùng dày lên lan tỏa hoặc hình trứng giới hạn kém rõ, thường có các vùng tăng tín hiệu trên T2 nhỏ đại diện cho những vùng nhỏ của sự thay đổi nang.
Vùng này cũng có thể có các đường sọc.
T1 C+ (Gd)
MRI có thuốc tương phản không thường được dùng để đánh giá adenomyosis, tuy nhiên, nếu thực hiện, nó cho thấy sự bắt thuốc tương phản của những tuyến nội mạc lạc chỗ.
Sự điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và nhu cầu bảo tồn khả năng sinh sản. Trong một vài trường hợp, việc ức chế sự tăng sinh của mô nội mạc do kích thích bởi nội tiết tố tuần hoàn bình thường (ví dụ như thuốc kháng GnRH) là đủ.
Đối với những phụ nữ có các triệu chứng nặng không cải thiện khi điều trị bằng thuốc, và những người không còn mong muốn có con, phẫu thuật cắt tử cung có thể được thực hiện.
Được mô tả đầu tiên bởi Rokitansky năm 1860 là “cystosarcoma adenoides uterinum” (tạm dịch: u xơ tử cung tuyến mô liên kết), và sau đó được định nghĩa bởi Von Recklinghausen năm 1896. Định nghĩa hiện đại của bệnh cơ tuyến tử cung được cho là được cung cấp năm 1972 bởi Bird và cộng sự.
Các phân biệt dựa trên sự phân bố vĩ mô của mô nội mạc
Đối với bệnh lý lan tỏa:
Tử cung bình thường
Nhân xơ tử cung dạng lan tỏa
Sự co cơ tử cung: phát hiện tạm thời
Bệnh ác tính
Ung thư biểu mô nội mạc tử cung (endometrial carcinoma)
Ung thư mô đệm nội mạc tử cung (endometrial stromal sarcoma)
Đối với bệnh lý khu trú (u cơ tuyến tử cung):
Nhân xơ tử cung
Giới hạn rõ hơn u cơ tuyến tử cung
Có thể có giả bao do mô cơ kế cận bị ép
Doppler màu: có xu hướng đẩy lệch mạch máu, cho thấy dòng chảy ngoại vi dạng đường tròn
Sự co bóp tử cung
Có tính chất tạm thời
Sự hình thành bất thường của mạch máu:
Không phá vỡ giao diện giữa nội mạc và cơ tử cung
Doppler màu: cho thấy dòng chảy vận tốc cao hỗn loạn
Bệnh ác tính:
Ung thư biểu mô nội mạc tử cung
Ung thư mô đệm nội mạc tử cung
Ung thư cơ tử cung (uterine leiomyosarcoma)
Di căn cơ tử cung (myometrial metastases)
Dù là dạng lan toả hay khu trú, một chẩn đoán phân biệt có khả năng nữa đó là điều trị ung thư vú với tamoxifen, có thể gây ra tăng sản nội mạc giới hạn không rõ và polyps nội mạc giống với bệnh cơ tuyến tử cung.
(Translated on 30 September 2024)